- Nguyễn Tiến Hưng và Nguyễn Kim Cương
- Vai trò,Gửi cho BBC Tiếng Việt từ Virginia, Hoa Kỳ
Đã 70 năm trôi qua kể từ Hiệp định Genève đánh dấu việc chia cắt Việt Nam thành hai nửa, và kéo theo là một cuộc chiến Nam-Bắc đẫm máu. Những gì đã sáng tỏ và còn gì mờ khuất sau bao toan tính chính trị và sau gió bụi của thời gian?
Có ai biết đâu con đường tới Điện Biên Phủ (Mường Thanh), một nơi xa xôi, hẻo lánh trên miền Thượng Du Bắc Việt, giáp biên giới Lào, được người Việt gọi là phủ Điện Biên (cũng như các phủ khác, thí dụ “phủ Vĩnh Tường” – Hồ Xuân Hương), lại quá dài, đi qua ngả Triều Tiên, Bắc Kinh, rồi Paris, lại ghé Genève, trước khi trở lại Việt Nam.
Chiến tranh Triều Tiên bắt đầu từ ngày 25/6/1950, kết thúc với Thỏa hiệp ngưng bắn Panmunjom ngày 27/7/1953. Vì hòa bình ở Triều Tiên chưa được định rõ, nên một Hội nghị Quốc tế được nhóm họp tại Genève (Thụy Sĩ) ngày 26/4/1954, với mục đích bàn về hòa bình và an ninh thế giới, là vấn đề Triều Tiên lúc đó. Nhưng vào thời điểm ấy thì tại Việt Nam, tình hình quân sự của Pháp đã trở nên nóng bỏng.
Khi gặp Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles ở Panmunjom, Ngoại trưởng Pháp Georges Bidault đặt câu hỏi: “Nhân dân Pháp sẽ không thể hiểu tại sao một giải pháp ngưng chiến được coi như thích hợp cho Triều Tiên lại không thích hợp cho Đông Dương?”
Dulles trả lời:
“Điều đình khi không có sự lựa chọn nào khác thì thường đi tới thất bại. Trong trường hợp Triều Tiên thì chúng tôi có sự lựa chọn, phía cộng sản hiểu rõ lời cảnh cáo của Hoa Kỳ là chúng tôi sẽ dùng một phương tiện không mấy tốt đẹp mà chúng tôi có sẵn trong tay (khí giới nguyên tử) để giải quyết nếu họ không đồng ý và theo đuổi một lựa chọn khác.” (Khi đồng Minh nhảy vào, Chương 8)
Vậy là Mỹ đã khuyên Pháp chưa nên điều đình vì chưa ở vào thế mạnh.
Rồi sau “Điện Biên Phủ”, Mỹ vẫn thôi thúc Pháp “cứ tiếp tục chiến đấu”, coi đó chỉ là thất bại của một trận chiến chứ không phải là đã bại trận. Vả lại Pháp chỉ mất đi khoảng một nửa sư đoàn ở một nơi hẻo lánh. Khu vực chiến lược quan trọng là toàn bộ lãnh thổ nằm sau “Tuyến De Lattre” là vùng đồng bằng Sông Hồng thì vẫn còn nguyên vẹn.
Nhưng dù Mỹ can ngăn, Pháp đã đi tới quyết định bỏ cuộc, vì tình hình chính trị nội bộ Pháp quá bết bát.
Như vậy lý do Pháp thất bại không phải là quân sự mà là chính trị: vì nhân dân và lãnh đạo đảng phái Pháp đã nản lòng, thối chí.
Dư luận quốc tế cho rằng: Pháp đã thất trận ở Paris chứ không phải ở chiến trường Việt Nam. Cũng như sau này, biến cố Mậu Thân được truyền thông Mỹ coi là “Điện Biên Phủ” của Tổng thống Lyndon Johnson, cho nên Mỹ đã thất bại ở Washington chứ không phải ở chiến trường miền Nam.
Trong bối cảnh của Pháp lúc ấy, Pháp yêu cầu đưa vấn đề Đông Dương ra đàm phán tại Genève.
Chỉ một ngày sau khi trận Điện Biên Phủ kết thúc, vấn đề Đông Dương được đem ra bàn hội nghị (ngày 8/5/1954).
Mỹ chống đối Hiệp định
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles liền gửi chỉ thị (đã được Tổng Thống Mỹ duyệt) cho Thứ trưởng Ngoại giao Bedell Smith, trưởng phái đoàn Mỹ tại Genève, rằng: Khi Hội nghị bước vào giai đoạn bàn về vấn đề Đông Dương thì ông phải làm sáng tỏ mục đích giới hạn của việc Mỹ tham gia Hội nghị, khác với mục đích của Pháp và Anh.
“Việc Hoa Kỳ tham dự vào Hội nghị Genève trong giai đoạn bàn về vấn đề Đông Dương thì chỉ là để giúp cho Hội nghị đi tới những quyết định có thể giúp cho các dân tộc nơi đây được sống trong hòa bình, độc lập về lãnh thổ và chính trị…”
Kết luận về vai trò của Mỹ tại Hội nghị, ông Dulles viết:
“Nếu ông nhận thấy rằng việc tham gia vào hội nghị trong giai đoạn này có thể dẫn tới việc Hoa Kỳ phải liên lụy vào kết quả của một giải pháp trái với chính sách của Hoa Kỳ thì ông phải báo cáo ngay về Washington và đề nghị Hoa Kỳ nên rút ra khỏi hội nghị hoặc giới hạn vai trò của Hoa Kỳ như một quan sát viên.”
Lập trường cứng rắn của Hoa kỳ có tác dụng là ủng hộ lập trường của Chính phủ Quốc gia Việt Nam chống lại việc chia cắt lãnh thổ.
Chính phủ Quốc gia Việt Nam thực thi quyền tự quyết tại Genève
Từ mùa Hè 1953, mặc dù Quốc trưởng Bảo Đại cố gắng thúc giục Pháp trả lại độc lập cho Việt Nam, nhưng mãi tới ngày 4/6/1954 thì Quốc hội Pháp mới phê chuẩn “Hiệp ước Độc lập” (Treaty of Independence). Việt Nam được chính thức công nhận là “một nước hoàn toàn độc lập và là một quốc gia tự trị với đầy đủ quyền hạn theo luật quốc tế”. Và Hiệp ước Patenôtre ký ngày 8 tháng 8 năm 1884 giữa Đại Nam Hoàng đế và Chính phủ Cộng hòa Pháp Quốc được hủy bỏ.
Trên căn bản mới này, Chính phủ Quốc gia Việt Nam đã từ chối tham gia Hội nghị Genève cho đến khi Ngoại trưởng Pháp Georges Bidault cam kết bằng văn bản rằng mục đích của Pháp chỉ là vãn hồi hòa bình tại Đông Dương và bất cứ thỏa hiệp nào với Việt Minh cũng sẽ không có vấn đề chia cắt lãnh thổ. Cam kết này được ông Bidault thông báo cho ông Bedell Smith và Ngoại trưởng Anh Anthony Eden.
Pháp đảo ngược lập trường
Nhưng ngày 12/6/1954, Chính phủ Pháp Joseph Laniel sụp đổ và Chính phủ Pierre Mendès-France lên thay thế ngày 17/6/1954 với số phiếu 419 trên 466 (90%), phản ảnh tinh thần chống chiến tranh của Quốc hội Pháp. Mendes-France thay đổi hẳn lập trường và tuyên bố :
“Việc ngưng bắn phải thực hiện ngay tức khắc... Chúng ta đang họp hôm nay là ngày 17/6/1954. Tôi sẽ đến trước quý vị vào ngày 20/7/1954 và sẽ báo cáo với quý vị kết quả đạt được.”
Tại Washington, bầu không khí hết sức bi quan. Ngoại trưởng Dulles lưu ý ông Bedell Smith không nên dính dáng vào việc soạn thảo hiệp định như Pháp yêu cầu, vì có thể đưa tới sự ngộ nhận là Mỹ đồng ý với Pháp. Cho nên ông phải làm rõ “vai trò của Hoa kỳ ở Genève được giới hạn chỉ là vai trò một quan sát viên” (công điện ngày 24/6/1954).
Khi đại biểu của Chính phủ Quốc gia Việt Nam phát biểu, Trưởng đoàn là Giáo sư Nguyễn Quốc Định, một vị giáo sư quốc tế công pháp có uy tín, hùng biện chống đối việc chia cắt đất nước, nói lên những thành quả của chính phủ Quốc gia từ Hiệp định Élysée (8/3/1949): đã thống nhất đất nước độc lập (trong Liên hiệp Pháp), tạo được một đạo quân quốc gia, được 35 quốc gia công nhận và đặt nền móng cho một hệ thống hành chính hữu hiệu.
Giáo sư Định long trọng tuyên bố:
“Về phần Quốc gia Việt Nam, phái đoàn chúng tôi trân trọng cảnh cáo hội nghị rằng nếu việc chia cắt lãnh thổ bị áp đặt vào chúng tôi thì kết quả không phải là hòa bình mà chỉ là một sự tạm ngừng trước khi có những cuộc xung đột mới… Bởi vậy việc chia cắt lãnh thổ sớm hay muộn – mà chắc là sớm – sẽ làm cho chiến tranh tái diễn.”
Mà thật vậy, sau khi Pháp bỏ cuộc thì Mỹ đã lao vào và chiến tranh tiếp diễn tàn khốc khi một nửa triệu quân nhân Mỹ vào tham chiến, trái ngược với ý muốn của lãnh đạo của cả Đệ nhất lẫn Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam.
Trung Quốc bí mật gây áp lực với Việt Minh
Cuối tháng 6/1954, phái đoàn Mỹ tại Genève báo cáo về Washington là Nga và Trung Quốc đều lo ngại về sự can thiệp quân sự của Mỹ tại Đông Dương. Bởi vậy, Nga thì tìm cách dàn xếp một thỏa hiệp để Pháp giữ lại một cứ điểm ở miền Bắc, giống như “giải pháp Berlin” ở Đức. Còn Trung Quốc thì đồng ý sẽ làm áp lực với Việt Minh chấp nhận giải pháp hòa bình với hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là quân sự, tức là ngưng chiến, rồi tới giai đoạn thứ hai là chính trị, thực hiện tổng tuyển cử.
Ông Jean Chauvel (trưởng phái đoàn Pháp tại hội nghị) thông báo cho Hoa Kỳ:
“Thủ tướng Mendès France yêu cầu ông Chu áp lực với Hà Nội để sớm có một hiệp định. Ông Chu Ân Lai đồng ý ngay vì đã chuẩn bị trước từ lâu.”
Áp lực của ông Chu Ân Lai lên phía Việt Minh để sớm có một hiệp định thì cũng chẳng thua gì áp lực của ông Henry Kissinger lên VNCH như được đề cập trong cuốn Bức tử VNCH – Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm (xuất bản tháng 5/2024).
Góc khuất của vĩ tuyến 17
Vào lúc ấy thì phía Anh và Mỹ đã âm thầm đi tới một thỏa hiệp về một “Kế hoạch 7 điểm” và yêu cầu Pháp gói ghém cho bằng được vào bất cứ hiệp định nào được ký kết. Trong 7 điểm đó có một điểm quan trọng:
“Giữ lại tối thiểu là một nửa nước Việt Nam ở phía Nam, và nếu có thể thì nên giữ lại một cứ điểm ở miền Đồng bằng Bắc Việt. Ranh giới chia đôi không thể nằm ở phía dưới một tuyến đi từ Đồng Hới sang phía Tây.
Ngày 14/7/1954, Thủ tướng Mendès-France ký một văn bản với Ngoại trưởng Foster Dulles để:
Xác định vai trò của Mỹ tại bàn hội nghị là “một quốc gia thân hữu”;
Công nhận 7 điểm do Mỹ-Anh đưa ra.
Vấn đề ấn định ranh giới chia đôi nước Việt Nam ở vĩ tuyến nào là một vấn đề được tranh cãi gắt gao ở Hội nghị.
Ngày 3/7/1954, ông Jean Chauvel cho Mỹ hay phía Việt Minh yêu cầu ranh giới chia đôi là vĩ tuyến 13, tức là từ khoảng Tuy Hòa (phía Nam tỉnh Quy Nhơn). Phía Liên Xô giải thích rằng sở dĩ Việt Minh đòi như vậy là vì trong thực tế thì cả ba tỉnh nằm ở phía nam Faifo đã nằm dưới quyền kiểm soát của họ rồi, đó là Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Sông Cầu (Tuy Hòa).
Về địa điểm để chia cắt, lúc đầu Pháp đòi chia ở vĩ tuyến 18 (phía Bắc Đồng Hới), sau đó đòi đưa lên vĩ tuyến 19 - phía Nam Nghệ An (xem Khi đồng Minh nhảy vào, trang 177).
Mặc dù Thủ tướng Mendès France đã quyết định phải giải quyết vấn đề Việt Nam nội trong một tháng, nhưng ông vẫn giữ vững lập trường về ranh giới và chỉ thị cho phái đoàn Pháp ở Genève:
“Hãy đừng có vì hạn chót do chính Mendès France đưa ra là ngày 20/7/1954 mà chấp nhận vĩ tuyến 13 làm ranh giới, vì hạn chót này có thể thay đổi.”
Sau cùng, theo như hồ sơ nội bộ Hoa Kỳ, “những nhượng bộ từ phía Việt Minh đã đưa tới một giải pháp về căn bản, đã gói ghém tất cả 7 yêu sách của Mỹ-Anh và còn nhượng bộ về vấn đề ranh giới.
Ông Mendès France rất tự hào rằng chính ông đã tranh đấu để kết quả về ranh giới chia đôi là vĩ tuyến 17, chứ không phải là vĩ tuyến 13 như Chính phủ VNDCCH đòi hỏi.
Một quan điểm khác về ranh giới
Tuy nhiên, theo Giáo sư sử học Qiang Zhai tại Auburn University (Montgomery, Alabama) trong cuốn sách China and the Vietnam War 1950-1975 (một tác phẩm nghiên cứu rất công phu với bằng chứng rõ ràng – xuất bản năm 2000) thì chính ông Chu Ân Lai đã làm áp lực với Việt Minh – với những sự kiện sau đây:
Từ đầu tháng 3/1954, ông Chu đã gởi điện văn cho ông Vi Quốc Thanh, Trưởng Ban Cố vấn Quân sự Trung Quốc tại Việt Nam (cũng là thành viên phái đoàn Trung Quốc tại Genève) đòi hỏi phía Việt Minh phải “cố gắng” để có nhiều thắng lợi quân sự hậu thuẫn cho hội đàm. Ban hậu cần Trung Quốc ở Quảng Tây phụ trách tiếp viện cho Việt Minh, được lệnh cung cấp vũ khí, đạn dược không giới hạn và đích thân ông Mao sẽ theo dõi tình hình. Tên gọi “Điện Biên Phủ” có nhiều khả năng bắt nguồn từ đây: vì là cách gọi của ông Mao (lúc ấy người Việt Nam gọi là Phủ Điện Biên như đề cập trên đây).
Giữa tháng 3/1954, ông Chu điện cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, hối thúc phải sửa soạn tham dự Hội đàm Genève và chuẩn bị cho vấn đề ranh giới phân chia lãnh thổ khi đình chiến. Ông Chu nói trước: “Phải có một ranh giới cố định, càng về phía nam càng tốt, thí dụ như vĩ tuyến 16”. Và ông Chu mời ông Hồ Chí Minh sang họp ở Bắc Kinh cuối tháng 3, rồi sau đó cùng sang Moscow để thảo luận với lãnh đạo Liên Xô.
Gần cuối tháng 3/1954, khi ông Hồ và ông Đồng sang Bắc Kinh, ông Mao khuyến khích: Hãy cố gắng để có kết quả ở Genève vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc tham dự một hội nghị quốc tế, ngang hàng với Mỹ và Liên Xô. Vì Trung Quốc không có kết quả về Triều Tiên ở Genève, nên phải có kết quả về Việt Nam.
Ngày 17/6/1954, Mendes-France nhậm chức thủ tướng Pháp thì ngày 23/6/1954, Chu Ân Lai đã bí mật gặp Mendes-France tại Bern, thủ đô Thụy Sĩ. Cuộc họp rất cởi mở, ông Mendes-France tỏ ý nhất quyết chấm dứt chiến tranh và ông Chu nói sẵn sàng công nhận Chính Phủ Quốc gia Việt Nam để tiến tới một thỏa hiệp.
Ông Chu thấy ông Mendes-France (thiên tả) khả ái, có thể lả một “người bạn” nên ông đã gặp ông Phạm Văn Đồng và khuyên: không nên “quan tâm quá mức” tới vĩ tuyến 16 hay 17 và cần phải để cho Mendes-France “đỡ mất mặt”, nếu không thì ông ta sẽ bị lật đổ. Nơi đây, xin độc giả lưu ý về lý luận tương tự của Cố vấn Henry Kissinger với Tổng thống Richard Nixon về việc nhượng bộ cho quân đội Bắc Việt đóng lại miền Nam Việt Nam - theo Hiệp định Paris 1973 - chính là để cho Bắc Việt “giữ được thể diện, không bị mất mặt” (sách Bức tử VNCH – Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm, Chương 9 - 2024).
Có nghiên cứu cho rằng việc Chu Ân Lai gây áp lực để Việt Minh chấp nhận vĩ tuyến 17 thay vì 16 là do ý đồ của Bắc Kinh chứ không phải là để cho Mendes-France đỡ “mất mặt” như ông Chu nói với Phạm Văn Đồng.
Đó là ý đồ bành trướng xuống quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc ôm ấp từ lâu. Bối cảnh là như thế này: Tại Hội nghị San Francisco năm 1951, sau khi Liên Xô đề nghị chuyển giao Hoàng Sa từ Nhật Bản cho Trung Quố và bị Hội nghị bác bỏ, đại diện của Quốc gia Việt Nam tại Hội nghị, Thủ tướng Trần Văn Hữu, đã long trọng tuyên bố trước 51 nước tham dự: “Chúng tôi xác định chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.” Không có nước nào phản đối tuyên bố này.
Tại Genève, nếu ranh giới chia cắt là vĩ tuyến 16, thì Hoàng Sa đã thuộc về lãnh thổ của VNDCCH chứ không phải VNCH.
Nhưng vì chọn vĩ tuyến 17, cho nên Hoàng Sa đã do phía VNCH quản lý. Như vậy là thuận lợi hơn cho Trung Quốc vì Trung Quốc có thể chiếm Hoàng Sa từ VNCH chứ không phải từ VNDCCH.
Sau này, qua Hiệp định Paris 1973, Henry Kissinger đã cho Trung Quốc biết là Mỹ sẽ rút khỏi Việt Nam và sẽ không trở lại, cho nên Trung Quốc xúc tiến việc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa như dự định từ lâu. Ngày 19/1/1974, khi trận hải chiến xảy ra, VNCH đã một mình chống trả. Nhưng ngay buổi chiều hôm ấy, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã gửi công điện cho Đại sứ Graham Martin ở Sài Gòn là phải can ngăn Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu “đừng đụng độ với Trung Quốc về mấy hòn đảo này”.
Câu hỏi đặt ra là nếu không có áp lực của Trung Quốc đối với Việt Minh về lằn ranh chia cắt lãnh thổ thì lịch sử đã diễn ra như thế nào?
Nhìn lại diễn biến 70 năm Hiệp định Genève, ta thấy một điểm rất rõ ràng, đó là từ lúc Trung Hoa Dân Quốc thành lập (1950) cho tới nay, chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam là luôn luôn nhất quán, không hề thay đổi - không phân biệt đối với phe quốc gia hay phe cộng sản:
Trung Quốc tận tình giúp VNDCCH đánh Pháp và Mỹ chỉ vì không muốn có Pháp hay Mỹ ở sát ngay bên cạnh đe dọa Trung Quốc, chứ không phải vì “tình nghĩa cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Trung Quốc không bao giờ muốn ở phía nam của mình lại có một nước Việt Nam thống nhất và hùng mạnh, cho nên khi cần thiết thì Trung Quốc trở mặt ngay. Bằng cớ là: Trung Quốc đã áp đặt Việt Minh giải pháp chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17 – và sẵn sàng công nhận Chánh phủ Quốc gia Việt Nam. Rồi khi cuộc chiến sắp kết thúc vào tháng 4/1975 thì Trung Quốc đã sẵn sàng tung 2 sư đoàn vào Sài Gòn để ngăn chặn chiến thắng của Bắc Việt nhưng lãnh đạo VNCH đã từ chối (xem sách Bức tử VNCH – Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm, Chương 4).
Xin để cho các thế hệ trẻ tìm hiểu cho thật sâu về lập trường và thái độ của từng phía tham dự Hội nghị và Hiệp định Genève ra sao, nhất là về vấn đề bảo toàn lãnh thổ, Hoàng Sa, Trường Sa, để soi sáng thêm nữa cho lịch sử.
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn Khi Đồng minh tháo chạy và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.
Sử gia: ‘Sợ Mỹ can thiệp, cộng sản ký Hiệp định Genève’
Các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam do lo sợ khả năng Mỹ can thiệp vào Đông Dương cộng với tương quan lực lượng và hoàn cảnh không có lợi cho họ nên đã nhanh chóng ký Hiệp định Genève, một nhà sử học giảng dạy ở Mỹ nói với VOA.
Cách nay tròn 70 năm, vào ngày 21/7 năm 1954, các phe phái tham chiến trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất đã ký Hiệp định Genève để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương nhưng đồng thời cũng phân chia Việt Nam thành hai miền lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Kết quả này đã dẫn đến cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai để cuối cùng quân cộng sản Bắc Việt đánh bại quân Việt Nam Cộng hòa để thống nhất đất nước vào năm 1975.
Nhiều yếu tố hội tụ
Khí thế của chiến thắng Điện Biện Phủ vào ngày 7/5 năm 1954 đã khiến nội bộ Đảng Lao động Việt Nam lúc đó có thành phần muốn đánh Pháp đến cùng. Tuy nhiên, cho đến giữa năm 1954, nhiều yếu tố hội tụ khiến chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) không muốn tiếp tục cuộc chiến, Giáo sư Pierre Asselyn, giáo sư Sử tại Đại học San Diego State University (SDSU), nói với VOA.
“Từ quan điểm của VNDCCH, tình hình đặc biệt bi quan ở các thành phố và một số nơi ở miền Nam, trong đó có những vùng mà họ xem là có tầm quan trọng về chiến lược. Tình hình ở miền Trung có tốt hơn nhưng vẫn khó khăn, trong khi lực lượng kháng chiến ở Lào và Campuchia vẫn còn yếu hơn đối phương,” Giáo sư Asselyn phân tích và chỉ ra quân Pháp bao gồm cả lực lượng thân Pháp ở Đông Dương lúc đó nhiều hơn gấp rưỡi quân Việt Minh.
Mặc dù quân Pháp đã hứng chịu thất bại quân sự nặng nề ở Điện Biên Phủ, họ vẫn còn duy trì đội quân viễn chinh hùng mạnh được hỗ trợ bởi quân đội ngày càng lớn mạnh của Quốc gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại. Không những thế, Paris còn khiến Việt Minh lo sợ rằng họ sẽ tiếp tục cuộc chiến sau khi Thủ tướng Pierre Mendès-France thông báo trước Quốc hội Pháp vào ngày 7/7 về quyết định triển khai thêm lực lượng đến Đông Dương và sẽ có những biện pháp cần thiếp để tiếp tục cuộc chiến nếu các cuộc đàm phán ở Genève thất bại, ông Asselyn nói thêm.
Trong khi đó, quân đội Việt Minh đã kiệt sức sau Điện Biên Phủ với thiệt hại nhân mạng và vật chất vô cùng lớn vì phải chiến đấu với quân Pháp có trang bị tốt hơn và phương tiện kỹ thuật ưu việt hơn. Do đó, nếu họ tiếp tục đánh Pháp thì tình hình sẽ càng thêm khó khăn, cũng theo lời sử gia này. Ngoài ra, người dân khắp nơi trên cả nước lúc đó đang mong muốn hòa bình lập lại. “Với tinh thần phản chiến lan rộng trên khắp Đông Dương, việc từ chối đàm phán sẽ là thiếu khôn ngoan, nó sẽ khiến giới trí thức và những người Việt ôn hòa xa lánh, làm xấu đi hình ảnh của VNDCCH ở trong nước và quốc tế,” ông nói.
Nếu tiếp tục chiến đấu và nếu Mỹ không can thiệp thì phải cần thêm từ 3 đến 5 năm nữa Việt Minh mới giành thắng lợi hoàn toàn, sử gia này dẫn lại lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp thừa nhận với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai khi đó, trong khi quân đội Việt Minh vào lúc đó rất cần thời gian nghỉ ngơi để tái xây dựng lực lượng, tái tổ chức và nâng cấp.
Ngoài ra, nếu chiến sự tiếp diễn thì chính quyền Việt Minh không thể tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế trong nước vốn đã trở nên trầm trọng sau nhiều năm chiến tranh và hậu quả tai hại của công cuộc Cải cách Ruộng đất. Chiến tranh và hạn hán đã tàn phá nông nghiệp và sản xuất, gây thiếu ăn thậm chí chết đói ở một số khu vực Việt Minh kiểm soát, ông chỉ ra.
Không những thế, cuộc chiến ngày càng trở thành cuộc chiến giữa người Việt vì Quốc gia Việt Nam đã xây dựng quân đội lớn mạnh để chiến đấu với Việt Minh cho người Pháp. “Tình hình đó củng cố nhận định của người Pháp rằng cuộc chiến ở Việt Nam không còn là cuộc kháng chiến chống thực dân nữa mà là cuộc nội chiến được châm ngòi bởi những tư tưởng đối lập,” ông Asselyn nói và cho rằng đó là một yếu tố nữa khiến chính quyền VNDCCH phải cân nhắc chấm dứt chiến tranh để giữ chính nghĩa.
Sợ Mỹ can thiệp
Tuy nhiên, nỗi sợ lớn nhất của VNDCCH lúc đó là khả năng người Mỹ can thiệp vào Đông Dương, cũng theo lời nhà sử học này, sau khi ông Ngô Đình Diệm, một người có lập trường chống Cộng cứng rắn mà họ xem là ‘tay sai của Mỹ’, được chọn làm thủ tướng của Quốc gia Việt Nam. Bước đi này, theo họ, là bước chuẩn bị cho Mỹ can thiệp trực tiếp vào Đông Dương.
“Lúc đó ai cũng thấy rõ rằng Washington đã thay đổi kế hoạch từ gửi quân đến Đông Dương để giúp duy trì chế độ thuộc địa của Pháp sang quyết tâm gạt người Pháp ra để nhảy vào thay thế người Pháp ở Đông Dương,” ông nói, dẫn lại đánh giá của các sử gia Việt Nam.
Do đó, nhất thiết phải đạt được một lệnh ngừng bắn ở Hội nghị Genève, ông phân tích thêm từ quan điểm của VNDCCH, để cô lập phe chủ chiến ở Pháp cũng như ngăn không cho chính quyền của Tổng thống Mỹ Eisenhower có cái cớ nào để can thiệp quân sự, và nếu đàm phán càng kéo dài chừng nào, sẽ càng bất lợi cho VNDCCH chừng đó, vì nếu ngày nào còn chưa đạt được thỏa thuận, người Mỹ sẽ vẫn tự do làm những gì họ muốn ở Đông Dương.
“Sự mệt mỏi sau cuộc chiến cùng với khả năng Mỹ can thiệp quân sự đã khiến các lãnh đạo của VNDCCH và Đảng Lao động Việt Nam tin rằng bàn đám phàn sẽ có lợi hơn là tiếp tục chiến đấu,” Giáo sư Asselyn dẫn lại phân tích của Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam tại Học viện Quốc phòng Úc, cho biết. Ngoài ra, việc đàm phán trực tiếp với người Pháp cũng đem lại cho VNDCCH vị thế hợp pháp ở trong nước cũng như trên trường quốc tế.
Ông Asselyn dẫn lại hội nghị Trung ương 6 vào giữa tháng 7 năm 1954 mà khi đó Bí thư Thứ nhất Trường Chinh đã cảnh báo phe tả khuynh trong Đảng vốn có lập trường kháng chiến tới cùng là ‘đã đánh giá quá cao lực lượng của chúng ta và xem thường âm mưu của đế quốc Mỹ và bọn chủ chiến Pháp’. Nếu không nhanh chóng đạt được thỏa thuận thì người Mỹ sẽ can thiệp và cán cân lực lượng sẽ thay đổi về hướng bất lợi, ông Trường Chinh khi đó đã cảnh báo.
Ngoài ra, VNDCCH còn bị áp lực từ phía những đồng minh như Liên Xô, và nhất là Trung Quốc, phải đạt được thỏa thuận hòa bình để chấm dứt cuộc chiến, cũng theo nhận định của GS Asselyn.
Cái chết của Stalin, nhà lãnh đạo Liên Xô mà VNDCCH xem là người ủng hộ nhiệt thành cho cuộc chiến của họ, vào năm 1953, đã đe dọa cam kết của Moscow đối với Việt Nam. Bên cạnh đó, cuộc chiến trên bán đảo Triều Tiên vừa kết thúc khiến cho cả Moscow và Bắc Kinh không còn nhiệt tình tiếp tục cuộc chiến ở Đông Dương. Riêng Bắc Kinh, vốn bị lôi vào chiến tranh liên miên từ khi lập quốc vào năm 1949, cũng cần thời gian nghỉ ngơi để xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải cách ruộng đất và thực thi kế hoạch Đại Nhảy Vọt của Mao Trạch Đông, Giáo sư Asselyn chỉ ra.
Mục tiêu chính của Bắc Kinh ở Hội nghị Genève, theo lời nhà sử học này, là ngăn quốc tế hóa cuộc xung đột ở Đông Dương như đã từng xảy ra ở cuộc chiến Triều Tiên khi quân Mỹ nhảy vào dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc.
“Do đó, dễ thấy là Bắc Kinh và Moscow hoan nghênh việc VNDCCH bất ngờ sẵn sàng đàm phán để kết thúc chiến tranh. Háo hức nắm bắt cơ hội này, họ đã kiến nghị chính quyền Pháp, Anh, Mỹ cùng tham gia vào bàn đàm phán đa phương ở Genève sau khi kết thúc đàm phán về vấn đề Triều Tiên,” ông trả lời khi được hỏi tại sao vận mệnh của đất nước Việt Nam vào lúc đó lại do các cường quốc quyết định ở Genève.
Đáp ứng các cường quốc?
Chính quyền của ông Hồ Chí Minh lúc đó lưỡng lự về mô hình đàm phán đa phương với các cường quốc thay vì chỉ đàm phán song phương với người Pháp, nhưng cuối cùng chấp nhận phương án này vì bản thân cuộc chiến Đông Dương đã bị quốc tế hóa, ông nói.
“Nhưng có thêm nhiều bên tham gia có nghĩa là có thêm yêu sách phải đáp ứng, và quyền lợi của VNDCCH có thể bị hy sinh để phục vụ lợi ích của các nước lớn. Mặc dù Bắc Kinh và Moscow vẫn là những người bạn trung thành của VNDCCH, nhưng tình hình thay đổi vào đầu năm 1954 có thể khiến cho họ có động cơ sử dụng hội nghị Genève để thúc đẩy mong muốn của họ là xây dựng mối quan hệ mới, bớt thù địch hơn với phương Tây,” Giáo sư Asselyn chỉ ra.
Cho đến cuối tháng 6 năm 1954, các nhà đàm phán của VNDCCH đã cố gắng xây dựng một thỏa thuận phù hợp với lợi ích của Moscow là hòa hoãn với phương Tây và lợi ích của Bắc Kinh là chấm dứt chiến tranh để ngăn Mỹ can thiệp, ông nói.
Chỉ vài giờ sau khi bế mạc hội nghị Trung ương 6, phái đoàn VNDCCH đã chấp nhận lấy vĩ tuyến 17 là giới tuyến để tập kết mặc dù lúc đầu Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn đàm phán, khăng khăng đòi lấy vĩ tuyến 13. Họ cũng miễn cưỡng từ bỏ yêu sách là Pathet Lao cũng như Khmer Issarak phải được công nhận là thực thể chính trị hợp pháp ở Lào và Campuchia, điều mà họ xem là liều thuốc đắng phải nuốt dưới áp lực của Bắc Kinh.
Tuy nhiên, phía VNDCCH đã đòi được việc phải có thời hạn tổng tuyển cử trong vòng hai năm, so với yêu sách lúc đầu là trong vòng từ 6 đến 12 tháng; vĩ tuyến 17 chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời chứ không phải là đường biên giới quốc gia; đảm bảo không có lực lượng quốc tế khác nào được đưa vào Đông Dương cũng như không hình thành liên minh quân sự giữa các phe phái chính trị ở Đông Dương với nước ngoài, Giáo sư Asselyn lưu ý.
Những điều khoản trong Hiệp định Genève ‘về bản chất là thỏa hiệp quốc tế do các cường quốc dàn xếp và mỗi cường quốc đều có một phần miếng bánh’, ông Asselyn dẫn lại quan điểm từ giới sử học Việt Nam, và việc phân chia đất nước ở vĩ tuyến 17 là kết quả thỏa thuận của những nước lớn đồng minh của VNDCCH mà Hà Nội buộc phải chấp nhận để sớm ký được Hiệp định.
Tuy nhiên, ông cho rằng mặc dù chính quyền VNDCCH lúc đó bị áp lực của Bắc Kinh và Moscow là chấm dứt chiến tranh để ngăn Mỹ can thiệp, nhưng đó cũng chính là quan ngại của giới lãnh đạo Việt Nam. Ông chỉ ra sự xuất hiện của Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles tại Genève là lý do khiến các nhà đàm phán Việt Nam phải nhanh chóng thỏa hiệp về việc lấy mốc nào làm giới tuyến.
“Mặc dù chấp nhận vĩ tuyến 17 có nghĩa là Nam Việt Nam có diện tích lớn hơn miền Bắc khoảng 12.000 km vuông, nhưng việc chấp nhận nó là nhượng bộ có ý nghĩa để ngăn Mỹ can thiệp,” ông nói và cho rằng bù lại, thời hạn tổng tuyển cử là thắng lợi quan trọng cho VNDCCH. Lúc đó, Việt Minh tự tin rằng họ sẽ chiến thắng trong tổng tuyển cử để thống nhất đất nước trong lúc ở nam vĩ tuyến 17 có quá nhiều phe phái đối địch nên khó lòng hình thành một chính phủ ổn định để đối đầu với VNDCCH.
“VNDCCH chưa bao giờ là một bên thụ động trong cuộc đàm phán ở Genève. Các điều khoản của Hiệp định không phải là không phù hợp với đánh giá của họ về lợi ích trong hoàn cảnh lúc đó ở bên trong và bên ngoài Đông Dương,” ông nhận định. “Mặc dù có vẻ như là họ phải hy sinh để đáp ứng lợi ích của các đồng minh nhưng thực ra họ đã giành được nhiều điều mà họ muốn. Các điều khoản của Hiệp định đã đem đến những đảm bảo tốt hơn để ngăn Mỹ can thiệp trong tương lai.”
Tuy nhiên, ông cho rằng phía VNDCCH đã đánh giá sai lầm về cam kết của Mỹ đối với Nam Việt Nam trong tương lai cũng như khả năng trụ vững của chính quyền ông Ngô Đình Diệm.
Ngoài phía Mỹ không ký, chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và sau này là Việt Nam Cộng hòa của Ngô Đình Diệm cũng bác bỏ hiệp định với lý do là họ chỉ được tham gia vào quá trình đàm phán trên danh nghĩa mà không được người Pháp tham vấn, Giáo sư Asselyn trả lời câu hỏi của VOA về việc thực thi Hiệp định Genève.
“Có lẽ thắng lợi lớn nhất ở Hiệp định Genève là người Pháp công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia,” ông nói.